TÓM TẮT LỊCH SỬ 13 VỊ VUA TRIỀU NGUYỄN (1802-1945)

NL

Triều Nguyễn, triều đại Phong kiến cuối cùng ở Việt Nam, đã tồn tại trong suốt hơn 143 năm (1802-1945) với 13 đời vua Nguyễn. Sau đây là danh sách 13 vị vua triều Nguyễn và tóm tắt lịch sử cuộc đời của họ.

Vương triều Nguyễn được thành lập từ năm nào?

Trước tiên, chúng ta cần tìm hiểu nhà Nguyễn được thành lập vào năm nào và trong bối cảnh nào. Mùa thu năm 1792, vua Quang Trung đột ngột mất. Nhà Tây Sơn bắt đầu suy vong. Lợi dụng tình hình đó, cháu chúa Nguyễn Phúc Khoát là Nguyễn Phúc Ánh (1765-1820) tấn công và đánh chiếm các thành nhà Tây Sơn, lập nên triều Nguyễn năm 1802. Sau đó, Nguyễn Ánh lên ngôi vua Gia Long, đóng đô ở Phú Xuân (Huế). Hai năm sau, ông đổi tên nước thành Việt Nam. Năm 1838, con trai ông, Hoàng đế Minh Mạng một lần nữa đổi tên thành Đại Nam.

Nhà Nguyễn tồn tại 143 năm với 13 vị vua. Các đời vua nhà Nguyễn gồm: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc, Hàm Nghi, Đồng Khánh, Thành Thái, Duy Tân, Khải Định, Bảo Đại. Thời các vua Nguyễn đầu tiên, đất nước phát triển bền vững; kinh tế, văn hóa được khôi phục. Thương mại được đẩy mạnh. Các kỳ thi cung đình được tổ chức thường xuyên để tuyển chọn nhân tài.

Tóm tắt lịch sử 13 vị vua triều Nguyễn (1802-1945)

1. Vua Gia Long (1802-1820)

  • Niên hiệu: Gia Long
  • Tên đầy đủ: Nguyễn Phúc Ánh 
  • Ngày sinh:Ngày 15 tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (08/02/1762).
  • Năm lên ngôi: Ngày 02 tháng 05 năm 1802 (01/06/1802).
  • Thời gian trị vì: 18 năm (1802 - 1820).
  • Ngày mất: Ngày 19 tháng Chạp năm Kỷ Mão (03/02/1820).
  • Miếu hiệu: Thế Tổ Cao Hoàng đế.

Vua Gia Long là vị vua đầu tiên của triều đại nhà Nguyễn, trị vì từ năm 1802 đến năm 1820. Ông là người thống nhất giang sơn, lập nước, đặt quốc hiệu sau gần 300 năm chia cắt bởi cuộc chiến Trịnh-Nguyễn phân tranh.

vua-1692429036.jpeg

Tóm tắt cuộc đời vua Gia Long

Vua Gia Long tên thật là Nguyễn Phúc Ánh (Nguyễn Ánh), là con trai thứ ba của hoàng tử Nguyễn Phúc Luân với bà Nguyễn Thị Hoàn, và là cháu nội của Chúa Nguyễn Phúc Khoát. Ông sinh ngày 15 tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (ngày 8 tháng 2 năm 1762), mất ngày 19 tháng 12 năm Kỷ Mão (ngày 3 tháng 2 năm 1820), truyền ngôi cho Hoàng Thái tử Nguyễn Phúc Đảm tức vua Minh Mệnh (Minh Mạng).

Năm 1773, Tây Sơn khởi nghĩa, Nguyễn Phúc Ánh 12 tuổi, theo chúa Nguyễn Phúc Thuần vào Quảng Nam. Mùa Thu nǎm Đinh Dậu (1777) Nguyễn Phúc Thuần tử trận. Nguyễn Phúc Ánh một mình chạy thoát ra đảo Thổ Chu, rồi sau chạy sang ẩn náu nhờ bên đất Xiêm.

Tháng 7/1792, vua Quang Trung bị bạo bệnh mất, con là Quang Toản còn ít tuổi, nội bộ lục đục, không sao chống nổi với sức tấn công của Nguyễn Ánh (có Pháp ngoại viện). Năm 1802, Nguyễn Ánh diệt xong nhà Tây Sơn lên ngôi hoàng đế, niên hiệu là Gia Long đóng đô tại thành Phú Xuân (Huế) vào ngày 1 tháng 6 năm Nhâm Tuất (1802).

Vua Gia Long có 21 người vợ và phi tần với 13 hoàng tử và 18 công chúa. Ngày 19 tháng 2 năm Kỷ Mão (tức ngày 3 tháng 2 năm 1820) vua Gia Long qua đời, thọ 59 tuổi, ở ngôi 18 năm, miếu hiệu là Thế Tổ, thụy hiệu Cao Hoàng Đế. Lăng của vua Gia Long hiệu Thiên Thọ, tại làng Đình Môn, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Tôn thờ vua Gia Long tại Chánh Án Miếu ở Thế Miếu trong Đại nội Kinh thành Huế.

Những thành tựu của triều Nguyễn dưới thời vua Gia Long

Trong suốt 25 năm bôn ba chinh chiến, vua Gia Long đã khôi phục lại cơ nghiệp dòng tộc của mình, vua là người có công thống nhất mảnh đất hình chữ S từ ải Nam Quan đến đất mũi Cà Mau và xác định chủ quyền với đảo Hoàng Sa-Trường Sa.

Năm 1804, vua Gia Long đổi quốc hiệu nước ta thành Việt Nam. Năm 1805, vua Gia Long đã cho xây dựng hệ thống kinh thành Huế và nay được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới nằm trong cụm Quần thể di tích cố đô Huế.

Nhà vua cho kiến lập hệ thống Lục Bộ và tập trung chấn chỉnh về quân sự, ngoại giao. Chú trọng đến việc học hành thi cử để tuyển chọn nhân tài.

Trong thời kỳ này, vua Gia Long đã chia đất nước thành 3 vùng: Bắc Thành, Gia Định Thành và các Trực doanh (Trung Bộ) do triều đình trực tiếp cai quản.

2. Vua Minh Mạng (1820 -1840)

  • Niên hiệu: Minh Mạng 
  • Tên đầy đủ: Nguyễn Phúc Đảm 
  • Ngày sinh: Ngày 23 tháng 04 năm Tân Hợi (25/05/1791).
  • Năm lên ngôi: Tháng Giêng năm Canh Thìn (1820).
  • Thời gian trị vì: 21 năm (1820 - 1841).
  • Ngày mất: Ngày 28 tháng Chạp năm Canh tý (20/01/1841).
  • Miếu hiệu: Thánh Tổ Nhân Hoàng đế.

Minh Mạng là vị vua thứ hai trong 13 vị vua triều Nguyễn nối tiếp nhau từ năm 1802 đến 1945. Vua Minh Mạng trị vì trong gần 21 năm từ năm 1820 đến 1841. Lịch sử vua Minh Mạng được biết đến là một nhà cải cách hành chính nổi tiếng, người có công lớn trong việc thống nhất đất nước, phân định ranh giới hành chính các địa phương một cách khoa học, hợp lý ổn định gần như từ đó đến nay.

tu-bat-lap-trieu-nguyen-2-1518-1692429146.jpeg

Tóm tắt cuộc đời vua Minh Mạng

Minh Mạng có tên huý là Nguyễn Phúc Đảm, sinh ngày 23 tháng 4 nǎm Tân Hợi (25/5/1791), là người con thứ 4 của vua Gia Long. Sau khi Gia Long mất, Nguyễn Phúc Đảm đã chính thức kế thừa ngôi vua, lấy niên hiệu Minh Mệnh vào năm 1820.

Minh Mạng có tư chất thông minh, hiếu học, năng động và quyết đoán. Ngay từ năm lên 9 tuổi (1800), hoàng tử Đảm đã được vua cha đưa theo ra trận. Ông sẵn tính thông minh, thường được vua cha khuyên nhủ học hành. Khi lên ngôi, Minh Mạng đặt ra lệ: các quan ở Thành, Dinh, Trấn - văn từ Hiệp trấn, Cai bạ, Ký lục, Tham hiệp; võ từ Thống quản cơ đến Phó vệ uý... ai được thắng điện, bổ nhiệm... đều phải đến kinh đô gặp vua, để vua hỏi han công việc, kiểm tra năng lực và khuyên bảo.

Trong lịch sử các đời vua Việt Nam nói chung và lịch sử 13 vị vua triều Nguyễn nói riêng, đời vua có nhiều vợ nhất là vua Minh Mạng. Theo sách lịch sử ghi lại thì vua Minh Mạng có 500 người vợ, sau đó là vua Tự Đức có 103 người vợ.

Thành tựu nhà Nguyễn dưới thời vua Minh Mạng

Vua Minh Mạng được xem là là vị vua có nhiều thành tích nhất của triều đại nhà Nguyễn. Đây được xem là thời kỳ hùng mạnh cuối cùng của chế độ phong kiến trong lịch sử Việt Nam. Dưới triều đại vua Minh Mạng, lãnh thổ Việt Nam có diện tích rộng lớn nhất trong số các triều đại phong kiến. Ảnh hưởng của nước Việt Nam lan rộng sang các quốc gia láng giềng như Vạn Tượng và Chân Lạp.

Dưới thời vua Minh Mạng, việc xác định chủ quyền biển đảo đất nước đã được kế thừa và phát huy hết sức hiệu quả mà không phải vị vua triều Nguyễn nào cũng làm được. Vua Minh Mạng đã chủ trương thực hiện nhiều chính sách cụ thể nhằm khẳng định chủ quyền cương hải của Tổ quốc hết sức bài bản và quyết liệt.

Trong 21 năm trị vì, Minh Mạng đã ban hành hàng loạt cải cách nội bộ. Minh Mạng cũng cử các quan đi đốc thúc việc khẩn hoang ở bờ biển phía Bắc và phía Nam. Là người tinh thâm nho học, sùng đạo Khổng Mạnh, Minh Mạng rất quan tâm đến học hành, khoa cử, tuyển chọn nhân tài. Nǎm 1821 cho dựng Quốc Tử Giám, đặt chức Tế Tửu và Tư Nghiệp, mở lại thi Hội và thi Đình, trước 6 nǎm một khoa thi, nay rút xuống 3 nǎm. Năm 1822, ông cho mở lại các kỳ thi Đình ở kinh đô để tuyển chọn nhân tài. Ông nghiêm cấm truyền bá đạo Thiên Chúa vì cho rằng đó là tà đạo phá hoại truyền thống dân tộc.

Về đối ngoại, Minh Mạng không đưa ra cải cách gì, tiếp tục duy trì chính sách của Gia Long: cô lập, từ chối mọi giao lưu với phương Tây, cấm nhân dân buôn bán với nước ngoài, khiến Đại Nam dần tụt hậu không tiếp thu được khoa học mới. và thành tựu kỹ thuật.

Suốt cả cuộc đời, nhà vua hết sức chăm nom việc triều chính, tham vọng phát triển đất nước. Đến năm 1841, vua Minh Mạng qua đời, truyền ngôi vua cho Nguyễn Phúc Miên Tông (tức vua Thiệu Trị).

3. Vua Thiệu Trị (1841-1847)

  • Niên hiệu: Thiệu Trị 
  • Tên đầy đủ: Nguyễn Phúc Miên Tông 
  • Ngày sinh: Ngày 11 tháng 05 năm Đinh Mão (16/06/1807).
  • Năm lên ngôi: Ngày 20 tháng Giêng năm Tân Sửu (11/02/1841).
  • Thời gian trị vì: 07 năm (1840 - 1847).
  • Ngày mất: Ngày 27 tháng 09 năm Đinh Dậu (04/10/1847).
  • Miếu hiệu: Hiến Tổ Chương Hoàng đế.

Thiệu Trị, hiệu là Nguyễn Phúc Miên Tông. Ông là con trưởng của vua Minh Mạng và hoàng hậu Hồ Thị Hoa, sinh ngày 16 tháng 6 năm 1807 tại Huế. Ông là con trưởng trong số 78 hoàng tử của vua Minh Mệnh nên được nối ngôi.

anh-chup-man-hinh-2023-08-19-luc-141309-medium-1692429228.jpeg

Tóm tắt cuộc đời vua Thiệu Trị

Ông nổi tiếng là một thi sĩ, nổi tiếng nhất là hai bài thơ chữ Hán là Vũ trung sơn thủy và Phước Viên Văn hội lương dạ mạn ngâm. Điểm độc đáo là cả hai bài không trình bày theo lối thường mà viết thành 5 vòng tròn đồng tâm, mỗi vòng tròn có một số chữ, mỗi bài có 56 chữ ứng với một bài thơ thất ngôn bát cú, nhìn vào như một trận đồ bát quái, vua chỉ cách đọc và ra câu đố tìm 64 bài thơ trong đó. Hiện nay các nhà nghiên cứu đã tìm được 128 cách đọc.

Những thành tựu triều Nguyễn dưới thời vua Thiệu Trị

Thiệu Trị được sử sách mô tả là một vị hoàng đế anh minh, tận tụy với việc nước, uyên bác về Nho học và yêu thơ ca. Vua Thiệu Trị chú trọng việc học hành, cho tiếp tục soạn bộ “Đại Nam thực lục tiền biên”, bộ “Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ”, đồng thời bản thân nhà vua cũng nổi tiếng là người giỏi thơ văn, nổi bật nhất là bộ thơ “Ngự đề danh thắng đồ hội thi tập”.

Tuy nhiên vua Thiệu Trị không đưa ra cải cách gì mới mà chỉ duy trì các chính sách hành chính, kinh tế, giáo dục, luật pháp, quân sự... từ thời Minh Mạng. Khi Thiệu Trị lên ngôi, chính sách bành trướng của Minh Mạng khiến lãnh thổ Đại Nam trở nên rộng lớn nhất trong lịch sử.

Thiệu Trị còn phải đối phó với nguy cơ xâm lược ngày càng lớn của thực dân Pháp. Đỉnh cao là trận cửa biển Đà Nẵng (1847) khi quân Pháp đánh chìm 5 thuyền đồng của thủy quân Đại Nam. Thất bại này khiến hoàng đế rất tức giận và lo lắng, nhưng cho đến khi qua đời, Thiệu Trị và các quan của ông vẫn không tìm ra cách giải quyết hợp lý.

Mười năm sau khi Thiệu Trị mất (1858), Pháp xâm lược Đại Nam, mở đầu thời kỳ Việt Nam bị Pháp đô hộ. Ông có khoảng 39 bà vợ và phi tần với 29 hoàng tử và 35 công chúa.

4. Vua Tự Đức (1847–1883)

  • Niên hiệu: Tự Đức
  • Tên đầy đủ: Nguyễn Phúc Hồng Nhậm 
  • Ngày sinh: Ngày 25 tháng 08 năm Kỷ Sửu (22/09/1829).
  • Năm lên ngôi: Tháng 10 năm Đinh Mùi (1947).
  • Thời gian trị vì: 36 năm (1847 - 1883).
  • Ngày mất: Ngày 16 tháng 06 năm Quý Mùi (19/07/1883).
  • Miếu hiệu: Dực Tông Anh Hoàng đế.

Trong 13 vị vua triều Nguyễn, Tự Đức là vua trị vì lâu nhất với 36 năm, từ 1847 đến 1883. Trong thời gian trị vì, Pháp xâm lăng Việt Nam, loạn lạc xảy ra khắp nơi, trách nhiệm của nhà vua đối với lịch sử thật lớn lao.

vuatuduc-nizt-wagb-1692429271.jpeg

Tóm tắt cuộc đời vua Tự Đức

Vua Tự Đức (trị vì 1847–1883) có tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1829 tại Huế, con thứ hai của Thiệu Trị và Phạm Thị Hằng (bà Từ Dũ). Vì anh trai là Nguyễn Phúc Hồng Bảo ham cờ bạc, không chịu học hành nên vua Thiệu Trị truyền ngôi cho ông. Tháng 10 nǎm 1847, Hồng Nhậm lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Tự Đức, lúc đó 19 tuổi nhưng học vấn uyên bác. Bắt đầu từ năm sau 1848. Khi Tự Đức lên nắm quyền, triều đình cai trị theo kiểu Nho giáo.

Dù có 103 bà vợ, ông không có người con ruột nào vì lúc nhỏ mắc bệnh đậu mùa, lại đau ốm liên miên nên sức khỏe không tốt. Ông nhận ba người cháu ruột làm con nuôi là Ưng Chân, Ưng Đường và Ưng Đăng. Bù lại sự yếu kém sức khỏe, Tự Đức lại rất thông minh và có tài vǎn học, thích nghiền ngẫm kinh điển Nho giáo, xem sách đến khuya. Tự Đức là một trong những người uyên bác về Nho học và Khổng học thời đó.

Tự Đức cai trị đất nước trong 36 năm từ 1847 đến 1883. Ông có 103 vợ và phi tần nhưng không có con do mắc bệnh quai bị khi mới 20 tuổi. Thế là ông nhận 3 người cháu trai làm con nuôi.

Tự Đức thiếu tính quyết đoán, thường dựa vào triều thần, bàn việc triều thần thì rất bảo thủ, do đó khi trên thế giới, khoa học và công nghiệp đã phát triển mạnh mẽ, các cường quốc đang cạnh tranh buôn bán ngày càng gay gắt, thì vua tôi chỉ lo việc nghiên bút, bàn đến Nghiêu, Thuấn, Hạ, Thương, Chu xa xưa làm tấm gương, nên Tự Đức "bế quan toả cảng" cấm buôn bán gay gắt.

Năm 1858, liên quân Pháp-Tây Ban Nha nổ súng tấn công Đà Nẵng. Trước tình hình người Pháp xâm lấn trong triều đình đặt ra vấn đề cải cách, liên tiếp các năm từ 1864 đến 1881, các quan là Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Trường Tộ, Đinh Văn Điền, Nguyễn Hiệp, Lê Định liên tiếp dâng sớ xin nhà vua cho cải cách toàn diện đất nước nhưng các đình thần lại không thống nhất, nhà vua cũng không đưa ra được quyết sách dứt khoát. Mãi đến năm 1878, triều đình nhà Nguyễn mới bắt đầu cử người thực hiện các bước đầu tiên trong quá trình cải cách là cho học tiếng nước ngoài, nhưng đình thần vẫn bất đồng và nảy sinh hai phe chủ trương cải cách và bảo thủ, rồi đến khi nước Đại Nam dần rơi vào tay quân Pháp cũng nảy sinh hai phe chủ chiến và chủ hòa.

5. Vua Dục Đức - ( làm vua 3 ngày)

  • Niên hiệu: Dục Đức hay Nguyễn Cung Tông 
  • Tên đầy đủ: Nguyễn Phúc Ưng Ái
  • Ngày sinh: Ngày 04 tháng 01 năm Quý Sửu (11/02/1853).
  • Năm lên ngôi: Ngày 19 tháng 07 năm 1883.
  • Ngày mất: Ngày 06 tháng 10 năm 1883.

Dục Đức là ông vua có số phận bi thảm nhất trong số 13 vị vua triều Nguyễn. Vua Dục Đức nổi tiếng với thời gian tại vị ngắn nhất lịch sử chỉ 3 ngày (từ ngày 20 đến ngày 23 tháng 7 năm 1883) thì bị hai vị phụ chính đại thần là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường hạch tội phế truất, bị giam và bỏ đói đến chết. Tuy nhiên, 6 năm sau, Thành Thái - Một người con của ông chính thức lên ngôi hoàng đế thứ 10 của triều Nguyễn vào năm 1889.

anh-chup-man-hinh-2023-08-19-luc-141549-medium-1692429384.jpeg

Tóm tắt cuộc đời vua Dục Đức

Vua Dục Đức (1852-1883) tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Ái, sau được Tự Đức đổi thành Nguyễn Phúc Ưng Chân. Ông là con thứ hai của Thoại Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Y và bà Trần Thị Nga. Năm 17 tuổi, ông được vua Tự Đức chọn làm con nuôi và cho xây dựng phòng riêng để học tập, giao cho Hoàng quý phi Vũ Thị Duyên trông nom dạy bảo. Chỗ học của vua về sau được gọi là Dục Đức Đường. Năm 1883, ông được phong làm Thụy Quốc công. Tài liệu của triều Nguyễn để lại rằng trong số 3 con nuôi của mình, vua Tự Đức yêu quý nhất và muốn truyền ngôi cho người con thứ ba là Nguyễn Phúc Ưng Đăng, con của Kiên thái vương và Nguyễn Thị Hương.

Khi mất, vua Dục Đức để lại 8 bà vợ, 11 người con trai và 8 người con gái. Vua Dục Đức là cha của vua Thành Thái và là ông nội của vua Duy Tân sau này.

6. Vua Hiệp Hòa (1883-4 tháng).

  • Niên hiệu: Hiệp Hòa 
  • Tên đầy đủ: Nguyễn Phúc Hồng Dật
  • Ngày sinh: Ngày 01 tháng 11 năm 1847.
  • Năm lên ngôi: năm 1883.
  • Ngày mất: Ngày 30 tháng 10 năm Quý Mùi (29/11/1883).

Vua Hiệp Hòa tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Dật, khi lên ngôi đổi niên hiệu là Nguyễn Phúc Thắng, sinh quán tại Huế, con thứ 29 và là út của vua Thiệu Trị; Mẹ Doãn Tấn là bà Đoàn Thị Doãn (có sách ghi là Thuấn). Nguyên hiệu của ông là Lang Quốc Công. Theo truyền thống của hoàng tộc Nguyễn Phúc từ thời thờ chúa Nguyễn Phúc Khoát, các hoàng tử sinh ra để dễ nuôi thường đặt tên là Mễ nên thuở nhỏ vua Hiệp Hòa cũng gọi là Mễ.

vua-hiep-hoa-1692429512.jpeg

Hiệp Hòa trị vì đất nước trong 4 tháng từ 30 tháng 7 đến 29 tháng 11 năm 1883. Vua có 11 hoàng tử và 6 công chúa, chỉ biết người con thứ là Ưng Hiệp kế vị anh là Phong Lộc tước và một hoàng hậu. tên Ngọc Pha. Hai người con trai khác của ông là Nguyễn Phúc Ưng Bác, tu húy là Văn Lang Hương Công và Nguyễn Phúc Ưng Chuẩn.

7. Vua Kiến Phúc (1883-1884)

  • Kiến Phúc hoặcKiến Phúc Đế 
  • Tên đầy đủ: Nguyễn Phúc Ung Đăng
  • Ngày sinh: Ngày 02 tháng Giêng năm Kỷ Tỵ (12/2/1869).
  • Năm lên ngôi: Ngày 03 tháng 11 năm Quý Mùi (02/12/1883).
  • Thời gian trị vì: 08 tháng (1883 - 1884)
  • Ngày mất: Ngày 10 tháng 06 năm Giáp Thân (31/07/1884)

Kiến Phúc sinh 12 tháng 2 năm 1869 - 31 tháng 7 năm 1884), tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Đăng, là vị hoàng đế thứ bảytrong số các đời vua nhà Nguyễn. Ông lên ngôi ngày 2 tháng 12 năm 1883, tại vị được 8 tháng thì mất, thụy là Giản Tông.

kien-phuc-1692429583.jpeg

Tóm tắt cuộc đời vua Kiến Phúc

Vua Kiến Phúc là con thứ 3 của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị Thanh. Ưng Đăng sinh ngày 2 tháng Giêng năm Kỷ Tỵ (12-2-1869). Năm 1870 lúc được 2 tuổi, Ưng Đăng được vua Tự Đức nhận làm con nuôi và giao cho bà Học Phi Nguyễn Thị Hương trông coi, dạy bảo. Sau khi vua Hiệp Hòa bị phế truất, vào ngày 2-12-1883, Ưng Đăng (15 tuổi) được đưa lên ngôi vua và đặt niên hiệu là Kiến Phúc. Vua Kiến Phúc ở ngôi được 8 tháng thì mất vào ngày 10 tháng 6 năm Giáp Thân (31-7-1884) lúc mới 16 tuổi. Sau khi mất, bài vị vua Kiến Phúc được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có Miếu hiệu là Giản Tông Nghị Hoàng đế.

Vua Kiến Phúc chỉ làm vua được 8 tháng, trở thành vị vua hiển hách nhất của triều Nguyễn, khi vua băng hà khi mới 15 tuổi. Cái chết của ông có liên hệ mật thiết với Phi tần Nguyễn Văn Thị Hương và Phụ chính sứ Nguyễn Văn Tường.

Thành tựu triều Nguyễn dưới thời vua Kiến Phúc

Trong thời gian cầm quyền ngắn ngủi của mình, có một việc làm đáng nhớ của vua Kiến Phúc, đó là vào đầu tháng Giêng năm Giáp Thân (1884) triều đình đã cho chế tạo thử loại súng theo kiểu của Mỹ và Đức, đồng thời cho dệt thử một số loại vải hoa, vải bông như phương Tây. Vua giao cho ông Nguyễn Xuân Phiếu phụ trách việc này cùng 3 người thợ máy, 15 thợ dệt và 20 biền binh. Những người này được phái đi học tập, thí nghiệm. Những người này sau khi thành thục đều được thăng chức hoặc thưởng tiền.

Dưới thời vua Kiến Phúc, ngày 6-6-1884, triều đình Huế ký với thực dân Pháp Hiệp ước Giáp Thân (Hòa ước Patenôtre), sửa đổi một số điều so với Hiệp ước Quý Mùi nhưng về cơ bản vẫn công nhận sự “bảo hộ” của Pháp đối với đất nước Việt Nam.

8. Vua Hàm Nghi (1884-1885)

  • Niên hiệu:Hàm Nghi
  • Tên đầy đủ: Nguyễn Phúc Ưng Lịch
  • Ngày sinh: Ngày 17 tháng 06 năm Tân Mùi (03/8/1871).
  • Năm lên ngôi: Ngày 12 tháng 06 năm Giáp Thân(02/08/1884).
  • Thời gian trị vì: 01 năm (1884 - 1885).
  • Ngày mất: Ngày 14 tháng 01 năm 1944.

Trong 13 vị vua triều Nguyễn, Hàm Nghi được xem là vị vua có lòng tự tôn dân tộc nhất, yêu nước nhất khi sẵn sàng rời bỏ ngai vàng và phát hịch Cần vương chống Pháp.

41074305544-40627dff25-b-1692429624.jpeg

Tóm tắt cuộc đời vua Hàm Nghi

Hàm Nghi sinh ngày 3 tháng 8 năm 1871 - 14 tháng 1 năm 1944, hiệu là Đế Xương, tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Lịch, vị hoàng đế thứ tám của nhà Nguyễn. “Vua Hàm Nghi là một người sáng dạ, thông minh ngay từ nhỏ. Sinh năm 1871, lên ngôi lúc mới 13 tuổi, nhưng ông đã ý thức được nỗi nhục mất nước và luôn đau đáu về một nền độc lập cho dân tộc”.

Là em ruột vua Kiến Phúc, năm 1884 Hàm Nghi được các phụ chính Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đưa lên ngôi khi mới 13 tuổi. Sau cuộc phản công ở kinh thành Huế thất bại năm 1885, Tôn Thất Thuyết đưa ông ra chiếu Cần Vương chống thực dân Pháp.

Một số thành tựu dưới thời vua Hàm Nghi

Ngày 13/1/1889, vua đặt chân đến Algérie trong tình trạng suy nhược vì sốt rét. Vua ở trong biệt thự tại El Biar, dưới sự giám sát và bảo vệ nghiêm ngặt. Tại đây, ông bắt đầu học nhiếp ảnh, vẽ. Suốt sự nghiệp, vua từng thực hiện ba triển lãm: tại Musée Guimet (tháng 6/1904), Galerie Mantelet (tháng 11/1911), Galerie Mantelet - Colette Weil (tháng 11/1926). Khi nhà văn Nga Tatiana Chtchepkina-Koupernik - người gặp ông tại dinh thự Gia Long - thúc giục tiếp tục tổ chức triển lãm ở Paris, ông từ chối. Vua coi nghệ thuật như thú vui riêng, giúp quên đi thực tại là vị vua bị phế truất, đang sống lưu vong. Ông cũng chưa bao giờ bán bất kỳ tác phẩm nào.

Hàm Nghi nổi tiếng đi liền với chiếu Cần Vương chống thực dân Pháp. Năm 1885, sau khi kinh đô Huế thất thủ, vua Hàm Nghi cùng Tôn Thất Thuyết rời khỏi kinh thành và phát phát động phong trào Cần Vương, kêu gọi văn thân, phò tá giúp vua, giúp nước. Phong trào này kéo dài đến năm 1888 thì Hàm Nghi bị bắt. Sau đó, ông được đưa đến Algiers (thủ đô của Algérie) và qua đời tại đây vào năm 1943 vì căn bệnh ung thư dạ dày. Do áp lực của Pháp, triều Nguyễn không lập đền thờ cho ông.

minh-hoa-vua-ham-nghi-1692429671.jpeg

9. Vua Đồng Khánh (1886-1888)

  • Niên hiệu:Đồng Khánh Đế 
  • Tên đầy đủ: Nguyễn Phúc Ưng Đường
  • Ngày sinh: Ngày 12 tháng Giêng năm Giáp Tý (19/12/1864).
  • Năm lên ngôi: tháng 08 năm 1885.
  • Thời gian trị vì: 03 năm (1885 - 1888).
  • Ngày mất: Ngày 27 tháng 12 năm Mậu Tỷ (28/01/1889).
  • Miếu hiệu: Cảnh Tông Thuần Hoàng đế.

Trong số các đời vua nhà Nguyễn, Đồng Khánh được xem là vị hoàng đế lên ngôi nhờ may mắn. Năm 1885, vua Hàm Nghi xuất quân lãnh đạo phong trào chống Pháp, lập căn cứ tại Tuyên Hóa (Quảng Bình). Triều đình Huế và Pháp liền thương lượng rồi đưa Ưng Biện lên ngôi, lấy niên hiệu là Đồng Khánh. Đây được coi là việc gấp rút trong tình thế rối loạn, chứ xét rõ thì trái với di chiếu của vua Tự Đức.

31-mot-hinh-anh-khac-cua-vua-dong-khanh-8732-1692429717.jpeg

Tóm tắt cuộc đời vua Đồng Khánh

Đồng Khánh sinh ngày 19-2-1864, tên húy là Nguyễn Phúc Ưng Thị và Nguyễn Phúc Ưng Đường, lên ngôi lấy niên hiệu là Nguyễn Phúc Biền, vị hoàng đế thứ 9 của nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, cai trị từ 1885 đến 1889.

Đồng Khánh vốn là con nuôi của vua Tự Đức. Năm 1885, sau khi triều đình nhà Nguyễn bị quân Pháp đánh bại trong trận kinh thành Huế, Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết chạy vào Quảng Trị. Đồng Khánh lên ngôi Pháp Dưới triều đại của ông, thực dân Pháp đã bắt đầu những công việc đầu tiên nhằm thiết lập một thời kỳ đô hộ 60 năm ở Tonkin (Bắc Kỳ) và An Nam (Trung Kỳ), trong khi triều đình Huế tỏ ra thần phục và hòa hoãn. Không dám cãi lại Pháp, Đồng Khánh chủ trương tiếp thu văn minh Pháp, dùng hàng Tây. Chính vì lẽ đó mà sử sách Việt Nam sau thời Nguyễn thường coi ông là một ông vua phản động, vì lợi ích của mình mà cam tâm làm bù nhìn, tay sai cho ngoại bang.

Đầu năm 1889, Đồng Khánh ốm nặng qua đời khi còn khá trẻ, mới trị vì được 4 năm, hiệu là Cảnh Tông. Người kế vị ông là vua Thành Thái. Theo Đại Nam Thực Lục, hậu duệ của Nguyễn Phước Tộc, vua Đồng Khánh có vua có tất cả hơn 100 phi tần, họ sinh cho ông sáu hoàng tử và ba công chúa. Tuy nhiên, sách Hoàng tộc Nguyễn chép rằng ông có 6 trai và 6 gái, nhưng không ghi rõ tên các công chúa.

10. Vua Thành Thái (1889-1907)

  • Niên hiệu:Thành Thái 
  • Tên đầy đủ: Nguyễn Phúc Bửu Lân 
  • Ngày sinh: Ngày 22 tháng 02 năm Kỷ Mão (14/03/1879).
  • Năm lên ngôi: Ngày 01 tháng 02 năm 1889.
  • Thời gian trị vì: 19 năm (1889 - 1907).
  • Ngày mất: Ngày 18 tháng 2 năm Ất Mùi (09/03/1955).

Vua Thành Thái tên thật là Nguyễn Phúc Bửu Lân, trị vì nước 19 năm từ 1889 đến 1907. Khi lên ngôi vua đổi niên hiệu là Nguyễn Phúc Chiểu. Ông là con thứ 7 của vua Dục Đức và bà Phan Thị Diệu, sinh ngày 14 tháng 3 năm 1879 tại Huế. Ông là cháu nội của Thái y Nguyễn Thái úy và là chắt của vua Thiệu Trị.

uokqrxv-1692429761.jpeg

Tóm tắt cuộc đời vua Thành Thái

Khi lên bốn tuổi, vua Dục Đức bị hai đại thần là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đánh bại và chết trong tù. Năm ông lên chín tuổi, ông nội ông là Phan Đình Bình (đại thần họ Hồ) bị vua Đồng Khánh bắt bỏ tù và chết sau khi mắng Đồng Khánh gian nịnh, thân Pháp khi Đồng Khánh đi sứ. Quảng Bình để dụ vua Hàm Nghi.

Ngày 28 tháng 1 năm 1889, vua Đồng Khánh bất hạnh qua đời ở tuổi 24. Lúc đó con của Đồng Khánh là Bửu Đảo mới 3 tuổi nên không thể nối ngôi. Tại tòa Khâm sứ, ông Diệp Văn Cường đang làm phiên dịch. Diệp Vọng Cương lấy dì của Bửu Lân, đồng thời có cảm tình với vua Dục Đức (anh rể) nên tìm cách cho cháu mình lên ngôi. Ông đã dịch nó cho Đại sứ Rheinart theo một cách hoàn toàn khác với Secret Institute. Thế là Bửu Lân được chọn lên ngôi khi mới 10 tuổi.

Thành tựu dưới thời vua Thành Thái

Thành Thái là một vị vua yêu nước và là một người có tinh thần dân tộc rất cao. Ông rất khinh ghét những bọn quan lại xu phụ. Vị vua nhà Nguyễn này thường giả điên để che mắt thực dân Pháp và tay sai. Ông còn bí mật huấn luyện quân đội, chế tạo vũ khí chờ thời cơ nổi dậy chống Pháp. Tuy nhiên, khi sự việc bại lộ. Thành Thái buộc phải thoái vị và bị đày đến Reunion.

Đầu tháng 5/1945 (sau khi vua Duy Tân mất), nhờ sự vận động của con gái và con rể, vợ chồng luật sư Vương Quang Nhường và cựu hoàng Thành Thái được phép trở về Việt Nam. Ông và gia đình sống tại Villa Anna ở Cap Saint Jacques (Vũng Tàu ngày nay).

Tháng 3 năm 1953, ông được phép trở lại Huế viếng lăng cha mẹ. Ông mất ngày 20 tháng 3 năm 1954 tại Sài Gòn và được an táng trong khuôn viên An Lăng thành (lăng Dục Đức) thuộc xã An Cựu, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, hưởng thọ 75 tuổi.

11. Vua Duy Tân (1907-1916)

  • Niên hiệu:Duy Tân 
  • Tên đầy đủ: Nguyễn Phúc Vĩnh San 
  • Ngày sinh: Ngày 26 tháng 08 năm Canh Tý (19/09/1900).
  • Năm lên ngôi:Ngày 28 tháng 07 năm Đinh Mùi (05/09/1907).
  • Thời gian trị vì: 09 năm (1907 - 1916).
  • Ngày mất: Ngày 21 tháng 11 năm Ất dậu (25/12/1945).

Vua Duy Tân lên ngôi lúc mới 7 tuổi, song với tư chất thông minh và cương vị người đứng đầu triều đình, ông trưởng thành rất sớm. Vốn được đưa lên ngôi vì "nhỏ tuổi, dễ bề sai khiến" nhưng vua Duy Tân đã thể hiện ý chí chống Pháp khiến quân Pháp phải bất ngờ.

vua-1-11231347-1692429989.jpeg

Vua Duy Tân lúc mới lên ngôi. 

Tóm tắt cuộc đời vua Duy Tân

Vua Duy Tân tên thật là Nguyễn Phúc Vĩnh San. Ông trị vì đất nước trong 9 năm từ 1907 đến 11916. Vua Duy Tân sinh ngày 19 tháng 9 năm 1900.

Lên ngôi vua, Duy Tân được người Pháp tạo điều kiện để vui chơi nhằm quên đi việc nước. Nhưng trái lại, Duy Tân chăm chỉ học tập để am hiểu nhiều lĩnh vực như tiếng Pháp, triết học, chính trị học, luật lệ, triều chính... Ông sử dụng thành thạo nhiều nhạc cụ như đàn nguyệt, đàn tranh, và tiếp thu kiến thức văn hóa, thành tựu của phương Tây.

Cha bị thực dân Pháp đày ải, ông được Pháp đưa lên ngôi vua khi 7 tuổi. Tuy nhiên, càng lớn, vua Duy Tân càng có những lời nói và cử chỉ tỏ rõ ý chí chống Pháp. Năm 1916, lợi dụng khi châu Âu đang trong chiến tranh, ông đã bí mật bắt liên lạc với các tướng của Việt Nam Quang Phục hội như Thái Phiên, Trần Cao Vân, lập mưu khởi nghĩa chống Pháp. Nỗ lực thất bại và Duy Tân bị bắt vào ngày 6 tháng 5 và ngày 3 tháng 11 năm 1916, ông bị quản thúc tại đảo Réunion ở Ấn Độ Dương.

Trong Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945) ông tham gia Đồng minh chống phát xít Đức. Ngày 26 tháng 12 năm 1945, ông qua đời trong một vụ tai nạn máy bay ở Cộng hòa Trung Phi, hưởng thọ 45 tuổi. Ngày 24 tháng 4 năm 1987, thi hài ông được đưa từ Réunion về Việt Nam, sau đó đưa về an táng tại Lăng Dục Đức, Huế bên cạnh lăng vua cha Thành Thái.

12. Vua Khải Định (1916-1925)

  • Khải Định Đế
  • Tên đầy đủ: Nguyễn Phúc Bửu Đảo 
  • Ngày sinh: Ngày 01 tháng 09 năm Ất Dậu (08/10/1885).
  • Năm lên ngôi: Ngày 18 tháng 05 năm 1916.
  • Thời gian trị vì: 09 năm.
  • Ngày mất: Ngày 20 tháng 09 năm Ất Sửu (06/11/1925).
  • Miếu hiệu: Hoàng Tông Tuyên Hoàng đế.

Vua Khải Định là vị hoàng đế thứ 12 trong 13 vị vua triều Nguyễn. Khải Định bị đánh giá là một vị vua nhu nhược trước Pháp, không quan tâm chính sự mà chỉ ham chơi bời, cờ bạc, ăn tiêu xa xỉ. Ông thường bị đả kích bởi báo chí và các phong trào yêu nước Việt Nam đương thời. Tuy nhiên, trong thời gian trị vì ông đã có nhiều đóng góp về việc phát triển trang phục truyền thống và các công trình kiến trúc cổ.

image-750x-628476f7b4261-1692430035.jpeg

Tóm tắt cuộc đời vua Khải Định

Vua Khải Định có tên thật là Nguyễn Phúc Bửu Đảo. Trong triều đại nhà Nguyễn, ông cai trị đất nước trong 9 năm từ 1916 đến 1925.

Năm 1889, vua Đồng Khánh băng hà, Bửu Đảo còn nhỏ nên không được nối ngôi (người nối ngôi là Thành Thái). Năm 1906, Bửu Đảo được đặt tên là Phụng Hóa Công. Ông là một tay cờ bạc, thường xuyên bị thua, có khi phải bán cả đồ gia dụng và người hầu. Bửu Đảo thậm chí còn bắt vợ là con gái của đại thần Trương Như Cương phải xin tiền cha mẹ để trả nợ đánh bạc.

Đăng quang Bửu Đảo không hoàn toàn suôn sẻ. Sau khi kết tội vua Duy Tân, người Pháp muốn xóa bỏ chế độ quân chủ ở Việt Nam nhưng các đại thần, đặc biệt là đại thần Nguyễn Hữu Bài không chịu nên Pháp phải nhượng bộ. Ngày 18-5-1916, Bửu Đảo lên ngôi lấy niên hiệu là Khải Định.

Khải Định sức khỏe kém giống cha và trở thành một con nghiện. Ông chết vì bệnh lao ở Kinh thành Huế, theo lời kể của người vợ lẽ Ba Phi, người mô tả ông là người "không ham muốn tình dục" và "thể chất yếu ớt".

Một số thành tựu dưới thời vua Khải Định

Mặc dù có nhiều câu chuyện về vua Khải Định là người ăn chơi xa xỉ nhưng cũng không thể bỏ qua được những cải cách của ông. Được học hỏi và tiếp thu nhiều kiến thức văn hóa phương Tây nên nhà vua cũng có tư tưởng cũng cởi mở hơn.

Vua Khải Định đã tự thiết kế trang phục kiểu mới và xây dựng điện Kiến Trung, cung An Đinh và cung Ứng Lăng theo phong cách kiến trúc hiện đại. Sự giao thoa văn hóa với người Pháp đã làm cho thẩm mỹ của vua có sự khác biệt so với các vị vua trước.

13. Vua Bảo Đại (1926-1945) - Vị vua cuối cùng của Việt Nam

  • Niên hiệu: Bảo Đại
  • Tên đầy đủ: Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy 
  • Ngày sinh: Ngày 03 tháng 09 năm Quý Sửu (22/10/1913).
  • Năm lên ngôi: Ngày 25 tháng 11 năm Ất Sửu (08/01/1926).
  • Thời gian trị vì: 21 năm (1925 - 1945).
  • Ngày mất: Ngày 31 tháng 07 năm 1997.

Vua Bảo Đại là người cuối cùng trong 13 vị vua triều Nguyễn và cũng là vị vua cuối cùng trong lịch sử Việt Nam.

Vua Bảo Đại có tên thật là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy. Ông trị vì đất nước trong 20 năm từ 1925 đến 1945. Bảo Đại sinh ngày 22 tháng 10 năm 1913 và trở thành vị hoàng đế cuối cùng của chế độ quân chủ trong lịch sử Việt Nam.

Từ năm 1922, Bảo Đại được đưa sang Pháp du học. Năm 1925, vua Khải Định băng hà, Bảo Đại về nước lo tang lễ cho cha và chính thức lên ngôi. Tuy nhiên, sau đó ông vẫn sống và học tập tại Pháp cho đến năm 1832 thì chính thức trở về nước để trị vì đất nước.

Năm 1945 sau cách mạng tháng 8, ngày 30 tháng 8, ông chính thức thoái vị và trao quyền lãnh đạo đất nước cho chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Hồ Chí Minh. Ông trở thành cố vấn cho chính phủ Hồ Chí Minh. Một năm sau, ông sang Trung Quốc rồi sang sống ở Pháp cho đến năm 1949 thì trở về Việt Nam và trở thành Quốc trưởng của chính phủ Pháp.

Năm 1954, sau hiệp định Genève, ông bị Ngô Đình Điền thay thế và Chiến tranh Việt Nam bắt đầu. Ông chuyển đến sống ở Pháp cho đến cuối đời. Ông mất năm 1997 tại Pháp, hưởng thọ 83 tuổi. Vua Bảo Đại có 8 bà vợ và 12 người con: 5 hoàng tử và 7 công chúa.

bao-dai57-1692430138.jpeg

Vua Bảo Đại

Tính từ khi họ Khúc đặt nền móng cho sự tự chủ của nước Việt. Năm 905 cho đến năm 1945 là năm đánh dấu chế độ phong kiến Việt Nam kết thúc là 1.160 năm. Sự kiện ngày 30 tháng 8 năm 1945 là dấu mốc lớn trong lịch sử dân tộc và cả trong cuộc đời vua Bảo Đại. Người đã quyết định từ bỏ cương vị hoàng đế để trở thành công dân mới của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.